Người cha nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" như lạc quan, coi nhẹ khó khăn, giàu tính tự tôn, sống giàu tính cảm và gắn bó với nơi mình sinh ra.
- Người đồng mình giàu ý chí, nghị lực, sống có ước mơ và khát vọng.
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
+ Ở đây nhà thơ không sử dụng từ “yêu” mà sử dụng từ “thương”. Người cha thương cho cái gập ghềnh cát sỏi của con đường quê, thương cho những vất vả nhọc nhằn trong cuộc sống con người nơi đây khi vừa phải khắc phục cái hiểm trở của thiên nhiên vừa xây dựng cuộc sống mới.
+ Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương lấy độ cao để đo nỗi buồn, lấy độ xa để thử thách ý chí và niềm tin ở con người.
+ Tính từ “cao”, “xa” được lồng ghép trong mạch thơ tăng tiến giúp nhà thơ khắc họa sự tăng tiến giữa khó khăn, thử thách và ý chí con người.
=> Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều vất vả nhưng vượt lên tất cả họ vẫn sẽ sống tốt và ngày càng làm chủ cuộc sống của mình. Qua đó cha muốn truyền cho con động lực, sức mạnh vươn lên mọi khó khăn bằng chính bàn tay khối óc của chính mình.
- Người đồng mình giàu nghĩa tình, gắn bó như máu thịt với quê hương, làng bản.
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông, như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
+ Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” cùng thành ngữ dân gian “lên thác xuống ghềnh” => gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, lam lũ
+ Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu đã khẳng định một chân lý sống: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. Họ không chê quê hương nghèo khó, không chê nơi sinh ra mình lam lũ mà họ xem như đó là thử thách để tôi luyện bản thân mình nhiều hơn.
+ Cha so sánh cách sống của những con người quê hương mình “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn của người đồng mình. Vất vả, trắc trở là thế nhưng tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như đại ngàn sông núi.
- Tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng người đồng mình luôn có tinh thần tự tôn cao.
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
- Ở hai câu thơ đầu tiên, cụm từ “thô sơ da thịt” là cách diễn đạt rất hình ảnh của người Tày nhằm miêu tả những con người mộc mạc, giản dị, chất phác. Cách nói trên càng ấn tượng hơn khi được kết hợp với cụm từ “chẳng nhỏ bé” nhằm nhấn mạnh sự lớn lao, vững vàng trong ý chí của người dân nơi đây. Bằng thủ pháp tương phản nhà thơ khắc họa hình ảnh con người quê hương mộc mạc mà giàu chí khí, thô sơ da thịt nhưng rất giàu niềm tin trong tâm hồn.
- Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa rất chân thực, rất đời thường khi chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi), vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình thật đang tự hào khi họ -bằng chính bàn tay và khối óc,đã gây dựng và làm giàu đẹp hơn quê hương. “Kê cao” ở đây có nghĩa là nâng tầm vị thế quê hương mình. Ngược lại, quê hương cũng là những nơi dựa vào, là đòn bẩy tiếp thêm tình yêu, niềm tin, động lực để con người có thể góp sức mình xây dựng vào bảo vệ quê hương.
- Khái quát thành lời dặn dò của người cha
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
Một lần nữa “thơ sơ da thịt” lại được lặp lại nhằm khắc họa bản chất, mộc mạc của người nơi đây. Dù có chất phác, giản dị, dù có lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn thử thách thì khi lên đường cha vẫn mong con không được nhỏ bé, yếu đuối. Lên đường ở đây có thể hiểu là hành trình khi con khôn lớn trưởng thành, phải rời xa quê hương để lập nghiệp thì hành trình con mang theo chính là tâm hồn, là ý chí, là nghị lực mà quê hương bao năm đã hun đúc cho con. Vì vậy khi đã là một phần của quê hương này, bao giờ con cũng phải sống một cách ngẩng cao đầu, hiên ngang, kiêu hãnh mà sống.