Soạn văn Lớp 8

Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận

176 lượt xem

  • Phổ thông nhất
  • Ngắn nhất
  • Hay nhất

Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận phổ thông nhất

Phần I

Trả lời

YẾU TỐ BIỂU CẢM TRONG VĂN NGHỊ LUẬN

Câu 1 (trang 96, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Đọc văn bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh và trả lời các câu hỏi.

a) Hãy tìm những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả và những câu cảm thán trong văn bản. Về mặt sử dụng từ ngữ và đặt câu có tính chất biểu cảm, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến có giống với Hịch tướng sĩ không?

b) Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ vẫn được coi là những văn bản nghị luận chứ không phải là văn bản biểu cảm. Vì sao?

c) Theo dõi bảng đối chiếu sau:

(1)

(2)

Thấy sứ giả đi lại ngoài đường, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ.
Lúc bấy giờ ta cũng các ngươi sẽ bị bắt. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!
Chúng ta sẵn sàng hi sinh tất cả, chứ không thể mất nước, không thể làm nô lệ. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu là nô lệ.
Chúng ta cần phải đúng lên. Hỡi đồng bào!Chúng ta phải đứng lên!

Có thể thấy những câu ở cột (2) hay hơn những câu ở cột (1). Vì sao vậy? Từ đó cho biết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận.

Trả lời:

a) - Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả:

+ Từ ngữ: muốn hòa bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hi sinh, nhất định không, phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.

+ Câu cảm thán:

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước nhất định không chịu làm nô lệ.

- Điểm chung của hai văn bản: Đều sử dụng nhiều từ ngữ, câu văn giàu tình cảm.

b) Tuy nhiên hai văn bản này vẫn được coi là văn bản nghị luận chứ không phải biểu cảm là bởi vì mục đích chính của chúng là nghị luận, biểu cảm chỉ đóng vai trò như một yếu tố phục vụ mục đích nghị luận của văn bản.

c) Những câu ở cột 2 hay hơn cột 1 là bởi vì cột 2 có thêm yếu tố biểu cảm (từ in nghiêng) giúp bộc lộ tình cảm, thái độ của người viết.

Câu 2 (trang 96, SGK Ngữ văn 8, tập hai)

Thông qua việc tìm hiểu các văn bản như Hịch tướng sĩLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, em hãy cho biết: Làm thế nào để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận?

a) Người làm văn chỉ cần suy nghĩ về luận điểm và lập luận hay còn phải thực sự xúc động trước từng điều mình đang nói tới?

b) Chỉ có rung cảm không thôi đã đủ chưa? Phải chăng chỉ cần có lòng yêu nước và căm thù giặc nồng cháy là có thể dễ dàng tìm ra những cách nói như: "Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả..." hay "uốn lưỡi cú diều..."? Để viết được những câu như thế, người viết cần phải có phẩm chất gì khác nữa.

c) Có bạn cho rằng: Càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, càng đặt nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm trong văn nghị luận càng tăng.

Ý kiến ấy có đúng không? Vì sao?

Trả lời: 

Khi viết một bài văn nghị luận, người viết đưa ra lí lẽ và dẫn chứng nhằm tác động tới người đọc về nhận thức, tình cảm và hành động để thuyết phục họ khiến tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo điều mà mình mong muốn. Bởi vậy, văn nghị luận rất cần yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm giúp cho bài văn đạt hiệu quả thuyết phục lớn hơn, vì nó tác động mạnh mẽ tới tình cảm của người đọc.

Trong một bài văn nghị luận, yếu tố biểu cảm được biểu hiện dưới các dạng sau:

- Tính khẳng định hay phủ định.

- Biểu lộ các cảm xúc (yêu, ghét, căm giận, quý mến, khen chê, lo âu, tin tưởng…).

- Giọng văn (mạnh mẽ, đanh thép hay thiết tha truyền cảm).

Để bài văn nghị luận có sức biểu cảm, người làm văn phải thực sự có cảm xúc, có những rung động về chính những vấn đề mình trình bày. Đồng thời phải biết diễn tả những cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm. Những tình cảm, cảm xúc đó lại phải chân thực, xuất phát từ những rung cảm thực sự của người viết.

a) Khi viết một bài văn nghị luận, ngoài việc việc xây dựng luận điểm và lập luận cho bài văn, người viết còn phải thuyết phục người đọc tin vào những luận điểm và lập luận đó. Bởi vậy, trước hết người đọc phải có tình cảm chân thành, xuất phát từ những rung động mãnh liệt đối với vấn đề mà mình đề cập.

b) Chỉ có tình cảm không thôi chưa đủ. Những tình cảm đó phải được bộc lộ qua những từ ngữ, câu văn, giọng điệu… phù hợp, qua đó gợi được sự hứng thú, hấp dẫn nơi bạn đọc.

c) Mặc dù yếu tố biểu cảm có ý nghĩa lớn lao như vậy nhưng không nên quá lạm dụng những yếu tố đó. Việc đưa quá nhiều từ ngữ biểu cảm vào bài văn sẽ khiến nội dung chính bị mờ nhạt, bạn đọc khó có thể nắm được hệ thống luận điểm, lập luận mà người viết trình bày. Văn nghị luận không phải là văn biểu cảm, các yếu tố biểu cảm chỉ mang tính phụ trợ. Muốn có giá trị biểu cảm thì yếu tố biểu cảm cần phải dùng đúng lúc, đúng chỗ.

Phần II

Trả lời

LUYỆN TẬP

Câu 1

Trả lời

Câu 2

Trả lời

Câu 3

Trả lời

Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận ngắn nhất

Phần I

Trả lời

Đang cập nhật ...!
Phần II

Trả lời

Đang cập nhật ...!
Câu 1

Trả lời

Đang cập nhật ...!
Câu 2

Trả lời

Đang cập nhật ...!
Câu 3

Trả lời

Đang cập nhật ...!

Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận hay nhất

Phần I

Trả lời

Câu 1 (trang 97 Ngữ Văn 8 Tập 2)

a. - Các yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và người bản xứ (ở văn bản Thuế máu) được thể hiện qua những hình ảnh so sánh,liên tưởng, những từ ngữ đối lập nhau:

      + Những tên da đen bẩn thỉu >< những đứa con yêu, những người bạn hiền, những chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do

      + Chiến tranh vui tươi >< rời xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường

      + Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.

      + Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng

      + Lấy máu mình tưới lên những vòng nguyệt quế…

      + Khạc ra từng miếng phổi

=> Các từ ngữ đối lập mang hàm ý mỉa mai châm biếm.

b. Tác dụng của những từ ngữ này:

- Giúp người đọc thấy rõ được bộ mặt thâm độc, giả nhân giả nghĩa cũng như âm mưu quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp

- Những từ ngữ này làm cho tính mỉa mai, trào phúng của bài viết mạnh mẽ hơn.

Câu 2 (trang 97 Ngữ Văn 8 Tập 2)

- Những cảm xúc của tác giả được biểu hiện qua đoạn văn:

      + Nỗi buồn trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.

      + Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước thực tế đáng buồn của ngành giáo dục .

- Để đoạn văn không chỉ có sức thuyết phục lí trí mà còn gợi cảm, tác giả đã sử dụng :

      + Giọng văn mang đầy tâm sự chứa đựng nỗi băn khoăn , day dứt của người viết.

      + Câu văn được viết dưới dạng câu hỏi tu từ :

          * Nói làm sao cho…

          * Không có lí do gì phải nhấn bút…

          * Sao không có một "hãng" nào đó in ra..

      + Từ ngữ thể hiện thái độ xuất hiện nhiều: nỗi khổ tâm, đeo một cái nghiệp, không có lí do gì, như con vẹt, việc gì còn phải lôi thôi,..

Câu 3 (trang 98 Ngữ Văn 8 Tập 2)

Viết đoạn văn

      Lối học vẹt học tủ đang ngày càng trở nên phổ biến trong thế hệ học sinh ngày nay. Chính điều ấy đã tác động một phần không nhỏ tới sự tiếp thu nhìn nhận kiến thức một cách thực sự của chính các học sinh dẫn đến học yếu kém sa sút. Sự phụ biến ngày càng mở rộng hơn và đang dần trở thành một trong những vấn nạn trong môi trường văn hóa giáo. Thế nào là học vẹt? Ta có thể hiểu là, học vẹt là học một cách máy móc thụ động thuộc lòng mà không hiểu gì. Chỉ đọc thuộc lòng những nội dung lí thuyết cần thiết một cách qua loa đại trà mà không hiểu đúng bản chất. Còn học tủ nghĩa là khi vào mùa thi cử học sinh chỉ cần học đúng phần được cho là cần thiết sẽ có trong bài thi và sử dụng nói với bản chất để đối phó qua loa tạm thời. Hai cách học như trên khiến cho học sinh ngày nay không thực sự hiểu được kiến thức bản chất, giảm tăng chất xám thiếu sự sáng tạo tìm tao ham học hỏi của tuổi trẻ. Ta cũng không thể phủ định được tác dụng của học vẹt và học tủ đối với đời sống con người. Tuy nhiên, đối với hai cách học này ta cần áp dụng nó vào những hoàn cảnh trường hợp cần thiết và hợp lí. Vì sẽ có những lúc ta học tử nhưng không trúng tủ dẫn đến bài làm không tốt.  Cả hai hình thức này chỉ có tính chất tạm thời, nó không đem lại lợi ích lâu bền cho vốn kiến thức, tư duy lâu dài cần thiết trong tương lai. Chính điều ấy mà ta cần phải nhìn nhận nó để đánh giá được lợi ích và tác hại của lối học vẹt, học tủ đem lại. Đưa ra cho chính bản thân phương pháp cách học sao cho đem đến cho mình kết quả tốt nhất để không phụ sự mong đợi của cha mẹ, thầy cô.

Phần II

Trả lời

Đang cập nhật ...!
Câu 1

Trả lời

Đang cập nhật ...!
Câu 2

Trả lời

Đang cập nhật ...!
Câu 3

Trả lời

Đang cập nhật ...!
0.05435 sec| 2437.547 kb