Soạn văn Lớp 12

Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị Luận Văn Học

203 lượt xem
Soạn bài: “Viết bài làm văn số 6: Nghị Luận Văn Học" - ngữ văn 12 tập 2 chi tiết. Nhằm giúp học sinh tiết kiệm thời gian và nắm rõ đủ ý, sytu giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực chất: cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn “Viết bài làm văn số 6: Nghị Luận Văn Học” cực chất - sytu

  • Phổ thông nhất
  • Ngắn nhất
  • Hay nhất

Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị Luận Văn Học phổ thông nhất

Câu 1
Câu 1
Đề 1: Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi có nêu lên quan niệm: chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông gia đình lại đổ về một biển, "mà biển thì rộng lắm [...], rộng bằng cả nước t

Trả lời

Gợi ý làm bài:

1. Mở bài:Giới thiệu vấn đề nghị luận

2. Thân bài

a. Giải thích quan niệm:

Chuyện gia đình cũng dài như một dòng sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Câu nói của Chú Năm có thể hiểu như sau:

- Truyền thống gia đình như một dòng sông, mỗi thế hệ, mỗi người chính là một khúc sau của dòng sông truyền thống ấy. Con cái vừa là sự tiếp nối huyết thống nhưng đồng thời cũng là sự tiếp nối truyền thống của thế hệ trước để lại.

- Câu nói của chú Năm đã khái quát một trong những phương diện cơ bản nhất chủ đề của truyện. Nguyễn Thi, qua thiên truyện ngắn này đã khám phá, phân tích, lý giải sức mạnh, chiến công của thế hệ trẻ miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nó như ngọn lửa được nhen nhóm từ truyền thống gia đình và được tiếp thêm tinh thần của thời đại . Cũng chính vì sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên nguồn động lực xây dựng nên hào khí của con người Việt Nam.

b. Chứng minh

- Không thể hiểu khúc sau của một dòng sông nếu không hiểu ngọn nguồn sinh ra nó. Cũng như vậy, chỉ có thế hiểu những đứa con (Chiến, Việt) khi hiểu truyền thống gia đình đã sinh ra những đứa con ấy. Qua các nhân vật trong truyện để chứng minh:

- Truyền thống ấy chảy từ các thế hệ ông bà, cha mẹ, cô chú đến những đứa con, mà kết tinh ở hiện tượng chú Năm:

+ Chú Năm không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người chú Năm phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu xa xưa.

+ Chú Năm luôn hướng về truyền thống (trong những câu hò, trong cuốn sổ gia đình).

- Hình tượng người mẹ cũng là hiện thân của truyền thống:

+ Một con người sinh ra để chống chọi với gian nguy, khó nhọc: "cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lượng, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi". "Người sực mùi lúa gạo", thứ mùi của đồng áng, của cần cù mưa nắng.

+ Ấn tượng sâu đậm nhất là khả năng ghìm nén đau thương để sống, để che chở cho đàn con và chiến đấu.

+ Người mẹ không biết sợ, không chùn bước, kiên cường và cao cả.

- Những đứa con, sự tiếp nối truyền thống:

+ Chiến mang dáng vóc của mẹ, cách nói giống hệt mẹ.

+ So với thế hệ của mẹ thì Chiến là khúc sông sau. Khúc sông sâu bao giờ cũng chảy xa hơn khúc sông trước. Người mẹ mang nỗi đau mất chồng nhưng chưa có dịp cầm súng, còn Chiến mạnh mẽ quyết liệt, ghi tên đi bộ đội cầm súng trả thù cho ba má.

+ Việt là chàng trai mới lớn, lộc ngộc, vô tư. Chất anh hùng ở Việt: không bao giờ khuất phục, bị thương dù chỉ có một mình vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù, Việt đi xa hơn dòng sông truyền thống: không chỉ lập chiến công mà ngay cả khi bị thương vẫn là người đi tìm giặc. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.

Rồi trăm con sông gia đình lại cùng đổ về một biến, "mà biển thì rộng lắm [...], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".

- Từ phạm vi nhỏ hẹp như dòng sông gia đình, nhà văn đã hướng suy nghĩ của mình đến những điều lớn lao hớn, đó chính là biển cả, là truyền thống, văn hóa của những dân tộc khác trên thế giới.

- Chuyện gia đình cũng chính là vấn đề chung của toàn dân tộc. Sức mạnh của dân tộc được sinh ra từ chính những đau thương trong gia đình

3. Kết bài: Tổng kết vấn đề nghị luận

Câu 2
Đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam qua hai bài tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường).

Trả lời

Gợi ý làm bài:

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận

2. Thân bài

a. Vẻ đẹp dòng sông Đà

Theo tác giả, sông Đà có hai tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình

Sông Đà tuy có hung dữ là thế nhưng khi nó chảy qua vùng bình nguyên lại mang dáng vẻ hiền hòa, thân thiện với con người. Con sông Đà được miêu tả dưới nhiều góc độ  :

- Khi quan sát từ trên cao, sông Đà hiện ra "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai",  sự tô điểm của hoa, núi, mây trời khiến cho khung cảnh hiện ra đẹp như một bức tranh.

- Bên bờ nhìn xuống thì thấy dòng sông lấp loáng như đứa trẻ nghịch ngợm, nhìn thấy nó như đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân => vẻ đẹp thân thuộc, gần gũi và trong sáng

- Dưới thuyền nhìn lên thấy bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa ... => vẻ đẹp hoài cổ, trữ tình và giàu chất thơ

=> Biện pháp tu từ so sánh được tác giả vận dụng hiệu quả trong việc miêu tả, hình ảnh con sông, ngôn ngữ nhẹ nhàng, giọng văn du dương, hình ảnh thơ mộng , được quan sát dưới nhiều lăng kính : dòng sông ẩn hiện trong mây trời, con hươu ngẩng đầu ra khỏi ánh cỏ sương... để từ đó làm nổi bật hình ảnh dòng sông hiền hòa, thơ mộng, trong sáng. Đó chính là dòng sông quê hương mang một vẻ đẹp đầy chất trữ tình, thi vị.

Vẻ đẹp của con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả vô cùng tỉ mỉ : được xem là một tác phẩm hội họa tuyệt vời mà tạo hóa ban tặng cho đất nước. Nổi tiếng là bậc thầy ngôn ngữ, khả năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã đặc tả con sông Đà ở đoạn này bằng những ngôn từ mềm mại, dịu dàng thể hiện đúng cái dáng vẻ của con sông.

b. Vẻ đẹp của sông Hương

Tác giả miêu tả một cách vô cùng chi tiết hành trình của con sông Hương, từ thượng nguồn Trường Sơn, dòng sông Hương chảy qua núi đồi, cánh đồng, làng mạc, kinh thành rồi đổ ra biển Đông. Vẻ đẹp của sông Hương càng thêm trở nên mê hồn khi nó được nhân hóa như người con gái có dáng dấp, trang phục, gương mặt, tính cách, tâm hồn,...

- Giữa dòng Trường Sơn, nó là bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn... như cô gái di-gan phóng khoáng và man dại... con sông mang dáng vẻ hoang dại nhưng cũng phóng túng, đáng yêu.

- Khi ra khỏi rừng, sông Hương lại mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, như người mẹ phù sa, tâm hồn sâu thẳm đã đóng kín lại ở cửa rừng. Những ngọn đồi tạo nên những mảng phản quang lên gương mặt sông nhiều màu sắc trên nền tây nam thành phố: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.

- Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, dòng sông như người đẹp nhủ mơ màng... uốn mình theo những đường cong thật mềm... sắc nước xanh thẳm.

- Giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, dòng sông đi qua giữa chốn bốn bề núi phủ mây phong lại mang vẻ đẹp trầm mặc... kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga...

- Từ đó, như tìm đúng đường về, sông Hương lại vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô. Giáp mặt thành phố thì sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến quanh năm sương khói mơ màng, làm cho dòng sông mềm hẳn đi, "như một tiếng vâng không nói của tình yêu".

- Khi rời khỏi kinh thành, nó lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc... như sực nhớ điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh... như chút vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu... ấy là tấm lòng người Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

=> Giọng văn mềm mang mang chất trữ tình, ngôn từ trau chuốt một cách thi vị đã lột tả hết vẻ phong phú của dòng sông nhưng nổi bật nhất là vẻ duyên dáng, hiền hòa, trong xanh phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Mặt sông chính là tấm gương phản chiếu khung cảnh thiên nhiên của quê hương theo năm tháng. Chiều dài của dòng sông như chiều dài của một chuyến đi, cũng là hành trình lớn lên của một cuộc đời được đào thải những tính nết chưa đẹp để giữ lại nét đáng yêu của tuổi đương thì, nên dòng chảy biểu lộ một tính cách có thay đổi theo địa hình để vừa tô điểm cho vẻ đẹp kinh thành như một con người của quê hương xứ Huế.

c. Sông Đà và sông Hương

Nếu sông Đà được Nguyễn Tuân so sánh với nhiều hình ảnh đặc trưng, ấn tượng, khi thì lại là con quái vật, lúc lại giống người con gái hiền hậu, dịu dàng ; thì Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh sông Hương như "một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại"... Cả Nguyễn Tuân và Hoàng Ngọc Tưởng đã thành công trong thể loại tùy bút bằng những miêu tả tỉ mỉ và tài hoa của mình, khiến cho con sông Đà và sông Hương bỗng như hiện ra trước mặt người đọc, vẽ ra trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc về nhwunxg nơi thiên nhiên tuyệt đẹp mà họ chưa từng đặt chân đến.

3. Kết bài

- Cả hai nhà văn đều sử dụng thể tùy bút để khám phá vẻ đẹp riêng của mỗi dòng sông, khiến cho người đọc như đang thật sự lạc vào khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà cũng rất nên thơ trữ tình.

- Tình yêu nước vô cùng của cả hai tác giả đã được thể hiện rõ ở hai đoạn trích trên thông qua việc quan sát tỉ mỉ từng chi tiết vẻ đẹp của hai con sông.

 

Câu 3
Đề 3: Về một truyện ngắn trong văn xuôi hiện đại Việt Nam mà anh (chị) yêu thích

Trả lời

Gợi ý làm bài:

- Đề bài yêu cầu chọn một truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam để bàn luận: phân tích, đánh giá, phát biểu cảm nghĩ về vấn đề đã chọn.

- Đối với đề này ta nên tập trung sâu vào nghị luận một vấn đề có ý nghĩa và vai trò trọng yếu trong tác phẩm thay vì phân tích dàn trải cả nội dung của cả bài. Khi xác định được đề tài nghị luận cần nếu ngắn gọn, rõ ràng lí do chọn đề tài.

Gợi ý tác phẩm có thể lựa chọn viết:Vợ chồng A Phủ -Tô Hoài

Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Đặc điểm nổi bật của Mị và A Phủ.

- Đưa ra sự lựa chọn , cần có sự sắp xếp và phối hợp  chi tiết nghệ thuật  một cách khoa học để dmiêu tả tính cách phù hợp với những đặc điểm chung, điểm riêng của hai nhân vật: ngoại hình, tính cách, hành động, ngôn ngữ, tâm lý.

- Đánh giá khái quát những điểm nổi bật về cách xây dựng nhân vật trong tác phẩm

Hình tượng nhân vật Mị.

- Vai trò của nhân vật trong truyện ngắn.

- Những điểm nổi bật trong cách xây dựng nhân vật

- Đánh giá chung về giá trị nghệ thuật của hình tượng trong truyện.

Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị Luận Văn Học ngắn nhất

Câu 1
Câu 1
Đề 1: Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi có nêu lên quan niệm: chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông gia đình lại đổ về một biển, "mà biển thì rộng lắm [...], rộng bằng cả nước t

Trả lời

Gợi ý làm bài:

1. Mở bài:Giới thiệu vấn đề nghị luận

2. Thân bài

a. Giải thích quan niệm:

Chuyện gia đình cũng dài như một dòng sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Câu nói của Chú Năm có thể hiểu như sau:

- Truyền thống gia đình như một dòng sông, mỗi thế hệ, mỗi người chính là một khúc sau của dòng sông truyền thống ấy. Con cái chính là sự tiếp nối huyết thống và tiếp nối truyền thống.

- Câu nói của chú Năm đã khái quát một trong những phương diện cơ bản nhất chủ đề của truyện. Nguyễn Thi, qua thiên truyện ngắn này đã khai thác, phân tích để giải thích sức mạnh, chiến công của thế hệ trẻ miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nó như ngọn lửa được nhen nhóm từ truyền thống gia đình và được tiếp thêm tinh thần của thời đại . Cũng chính vì sự cộng hưởng tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh vĩ đại của người Việt.

b. Chứng minh

- Không thể hiểu khúc sau của một dòng sông nếu không hiểu ngọn nguồn sinh ra nó. Cũng như vậy, chỉ có thế hiểu những đứa con (Chiến, Việt) khi hiểu truyền thống gia đình đã sinh ra những đứa con ấy. Qua các nhân vật trong truyện để chứng minh:

- Truyền thống ấy chảy từ các thế hệ ông bà, cha mẹ, cô chú đến những đứa con, mà kết tinh ở hiện tượng chú Năm:

+ Chú Năm không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người chú Năm phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu xa xưa.

+ Chú Năm luôn hướng về truyền thống (trong những câu hò, trong cuốn sổ gia đình).

- Hình tượng người mẹ cũng là hiện thân của truyền thống:

+ Một con người sinh ra để đối đầu với gian nguy, khắc nghiệt : "cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lượng, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi". "Người sực mùi lúa gạo", thứ mùi của đồng áng, của cần cù mưa nắng.

+ Ấn tượng sâu đậm nhất là khả năng kìm nén đau thương để sống, để che chở cho đàn con và chiến đấu.

+ Người mẹ gan dạ, không chùn bước, bất khuất và cao cả.

- Những đứa con, sự tiếp nối truyền thống:

+ Chiến mang dáng vóc của mẹ, cách nói giống hệt mẹ.

+ So với thế hệ của mẹ thì Chiến là khúc sông sau. Khúc sông sâu bao giờ cũng chảy xa hơn khúc sông trước. Người mẹ mang nỗi đau mất chồng nhưng chưa có dịp cầm súng, còn Chiến mạnh mẽ quyết liệt, ghi tên đi bộ đội cầm súng trả thù cho ba má.

+ Việt là chàng trai mới lớn, lộc ngộc, vô tư. Chất anh hùng ở Việt: không bao giờ khuất phục, bị thương dù chỉ có một mình vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù, Việt đi xa hơn dòng sông truyền thống: không chỉ lập chiến công mà ngay cả khi bị thương vẫn là người đi tìm giặc. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.

Rồi trăm con sông gia đình lại cùng đổ về một biến, "mà biển thì rộng lắm [...], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".

- Từphạm vi nhỏ hẹp như dòng sông gia đình, nhà văn muốn dòng sông gia đình đổ ra biển văn hóa chung cuả dân tộc.

- Chuyện gia đình cũng chính là vấn đề chung của toàn dân tộc. Sức mạnh của dân tộc được sinh ra từ chính những đau thương trong gia đình

3. Kết bài:Tổng kết vấn đề nghị luận

Câu 2
Đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam qua hai bài tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường).

Trả lời

Gợi ý làm bài:

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận

2. Thân bài

a. Vẻ đẹp dòng sông Đà

Theo tác giả, sông Đà có hai tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình

Khi chảy qua vùng bình nguyên, sông Đà mang một vẻ đẹp hiền hòa, thân thiện. Hình ảnh con sông Đà được miêu tả dưới nhiều góc độ  :

- Khi nhìn từ trên cao, sông Đà hiện ra "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai",  tạo nên sự trữ tình bởi nhwunxg hình ảnh nên thơ như hoa, núi, mây trời.

- Đứng từ bờ nhìn xuống thì thấy dòng sông lấp loáng như đứa trẻ nghịch ngợm, nhìn thấy nó như đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân => gợi vẻ thân thuộ, gần gũi

- Dưới thuyền nhìn lên thấy bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa ... => vẻ đẹp hoài cổ, trữ tình và giàu chất thơ

=> Sử dụng sáng tạo phép so sánh để miêu tả hình ảnh con sông, ngôn từ nhẹ nhàng, giọng văn du dương, hình ảnh thơ mộng , được quan sát dưới nhiều lăng kính : dòng sông ẩn hiện trong mây trời, con hươu ngẩng đầu ra khỏi ánh cỏ sương... để từ đó làm nổi bật hình ảnh dòng sông hiền hòa, thơ mộng, trong sáng. Đó chính là dòng sông quê hương mang một vẻ đẹp đầy chất trữ tình, thi vị.

Qua miêu tả tỉ mĩ, sông Đà hiện lên với một vẻ đẹp vô thực: được xem là một tác phẩm hội họa tuyệt vời mà tạo hóa ban tặng cho đất nước. Nổi tiếng là bậc thầy ngôn ngữ, khả năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã đặc tả con sông Đà ở đoạn này bằng những ngôn từ mềm mại, dịu dàng thể hiện đúng cái dáng vẻ của con sông.

b. Vẻ đẹp của sông Hương

Hành trình của con sông Hương được quan sát chi tiết , từ thượng nguồn Trường Sơn, dòng sông Hương chảy qua núi đồi, cánh đồng, làng mạc, kinh thành rồi đổ ra biển Đông. Vẻ đẹp của sông Hương càng thêm trở nên mê hồn khi nó được nhân hóa như người con gái có dáng dấp, trang phục, gương mặt, tính cách, tâm hồn,...

- Giữa dòng Trường Sơn, nó là bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn... như cô gái di-gan phóng khoáng và man dại... thể hiện sự phóng túng, đáng yêu nhưng hoang dại của con sông..

- Khi ra khỏi rừng, sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng, như người mẹ phù sa, tâm hồn sâu thẳm đã đóng kín lại ở cửa rừng. Những ngọn đồi tạo nên những mảng phản quang lên gương mặt sông nhiều màu sắc trên nền tây nam thành phố: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.

- Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, dòng sông như người đẹp nhủ mơ màng... uốn mình theo những đường cong thật mềm... sắc nước xanh thẳm.

- Giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, dòng sông đi qua giữa chốn bốn bề núi phủ mây phong lại mang vẻ đẹp trầm mặc... kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga...

- Từ đó, như tìm đúng đường về, sông Hương lại vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô. Giáp mặt thành phố thì sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến quanh năm sương khói mơ màng, làm cho dòng sông mềm hẳn đi, "như một tiếng vâng không nói của tình yêu".

- Khi rời khỏi kinh thành, nó lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc... như sực nhớ điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh... như chút vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu... ấy là tấm lòng người Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

=> Giọng văn mang chất trữ tình, ngôn từ trau chuốt một cách thi vị đã lột tả hết vẻ phong phú của dòng sông nhưng nổi bật nhất là vẻ duyên dáng, hiền hòa, trong xanh phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Mặt sông chính là tấm gương phản chiếu khung cảnh thiên nhiên của quê hương theo năm tháng. Chiều dài của dòng sông như chiều dài của một chuyến đi, cũng là hành trình lớn lên của một cuộc đời được đào thải những tính nết chưa đẹp để giữ lại nét đáng yêu của tuổi đương thì, nên dòng chảy biểu lộ một tính cách có thay đổi theo địa hình để vừa tô điểm cho vẻ đẹp kinh thành như một con người của quê hương xứ Huế.

c. Sông Đà và sông Hương

Nếu sông Đà được Nguyễn Tuân so sánh với nhiều hình ảnh đặc trưng, ấn tượng, khi thì lại là con quái vật, lúc lại giống người con gái hiền hậu, dịu dàng ; thì Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh sông Hương như "một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại"... Cả Nguyễn Tuân và Hoàng Ngọc Tưởng đã thành công trong thể loại tùy bút bằng những miêu tả tỉ mỉ và tài hoa của mình, khiến cho con sông Đà và sông Hương bỗng như hiện ra trước mặt người đọc, vẽ ra trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc về nhwunxg nơi thiên nhiên tuyệt đẹp mà họ chưa từng đặt chân đến.

3. Kết bài

- Được miêu tả bằng thể loại tùy bút, hai con sông trở nên vô cùng chân thực nhưng cũng mang dáng vẻ vô cùng trữ tình, thơ mộng.

- Thể hiện tình yêu nước của hai tác giả

Câu 3
Đề 3: Về một truyện ngắn trong văn xuôi hiện đại Việt Nam mà anh (chị) yêu thích

Trả lời

Gợi ý làm bài:

- Đề bài yêu cầu chọn một truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam để bàn luận: phân tích, đánh giá, phát biểu cảm nghĩ về vấn đề đã chọn.

- Tập trung nghị luận một vấn đề có ý nghĩa, có vai trò quan trọng trong tác phẩm. Giải thích ngắn gọn lí do chọn đề tài.

Gợi ý tác phẩm có thể lựa chọn viết:Vợ chồng A Phủ -Tô Hoài

Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Nêu đặc điểm nổi bật của nhân vật..

- Cách lựa chọn, kết hợp các chi tiết nghệ thuật để diễn tả tính cách phù hợp với những đặc điểm chung, điểm riêng của hai nhân vật: ngoại hình, tính cách, hành động, ngôn ngữ, tâm lý.

- Khái quát đặc điểm nổi bật của nhân vật trong tác phẩm.

Hình tượng nhân vật Mị.

- Vai trò của nhân vật trong truyện ngắn.

- Những điểm nổi bật trong cách xây dựng nhân vật

- Đánh giá chung về giá trị nghệ thuật của hình tượng trong truyện.

Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị Luận Văn Học hay nhất

Câu 1
Câu 1
Đề 1: Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi có nêu lên quan niệm: chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông gia đình lại đổ về một biển, "mà biển thì rộng lắm [...], rộng bằng cả nước t

Trả lời

Gợi ý làm bài:

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận

2. Thân bài

a. Giải thích quan niệm:

Chuyện gia đình cũng dài như một dòng sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Câu nói của Chú Năm có thể hiểu như sau:

- Truyền thống gia đình như một dòng sông, mỗi thế hệ, mỗi người có vai trò như một khúc sông ngắn của dòng sông truyền thống ấy. Con cái vừa là sự tiếp nối huyết thống nhưng đồng thời cũng là sự tiếp nối truyền thống của thế hệ trước để lại.

- Câu nói của chú Năm đã khái quát một trong những phương diện cơ bản nhất chủ đề của truyện. Nguyễn Thi, qua thiên truyện ngắn này đã khám phá, phân tích, lý giải sức mạnh, chiến công của thế hệ trẻ miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nó như ngọn lửa được nhen nhóm từ truyền thống gia đình và được tiếp thêm tinh thần của thời đại . Nhờ vào sự hòa quyện, cộng hưởng giữa tình yêu nước cùng với tình cảm gia đình, giữa truyền thống dân tộc cùng với truyền thống gia đình đã tạo nên nguồn động lực xây dựng nên hào khí của con người Việt Nam.

b. Chứng minh

- Không thể hiểu khúc sau của một dòng sông nếu không hiểu ngọn nguồn sinh ra nó. Cũng như vậy, chỉ có thế hiểu những đứa con (Chiến, Việt) khi hiểu truyền thống gia đình đã sinh ra những đứa con ấy. Qua các nhân vật trong truyện để chứng minh:

- Truyền thống ấy chảy từ các thế hệ ông bà, cha mẹ, cô chú đến những đứa con, mà kết tinh ở hiện tượng chú Năm:

+ Chú Năm không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người chú Năm phản chiếu tinh thần Nguyễn Đình Chiểu xa xưa.

+ Chú Năm là con người mang trong mình dòng máu truyền thống dân tộc (trong những câu hò, trong cuốn sổ gia đình).

- Hình tượng người mẹ cũng là hiện thân của truyền thống:

+ Một con người sinh ra để chống chọi với gian nan, khó nhọc: "cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lượng, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi". "Người sực mùi lúa gạo", thứ mùi của đồng áng, của cần cù mưa nắng. Điển hình cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống cần cù, chăm chỉ, tần tảo sớm hôm

+ Ấn tượng sâu đậm nhất là khả năng kìm nén đau thương để tiếp tục tồn tại, để làm chỗ dựa tinh thần cho đàn con và chiến đấu.

+ Người mẹ bất khuất, gan dạ, không chùn bước, kiên cường và cao cả.

- Những đứa con, sự tiếp nối truyền thống:

+ Chiến mang dáng vóc của mẹ, cách nói giống hệt mẹ.

+ So với thế hệ của mẹ thì Chiến là khúc sông sau. Khúc sông sâu bao giờ cũng chảy xa hơn khúc sông trước. Người mẹ mang nỗi đau mất chồng nhưng chưa có dịp cầm súng, còn Chiến mạnh mẽ quyết liệt, ghi tên đi bộ đội cầm súng trả thù cho ba má.

+ Việt là chàng trai mới lớn, lộc ngộc, vô tư. Chất anh hùng ở Việt: không bao giờ khuất phục, bị thương dù chỉ có một mình vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù, Việt đi xa hơn dòng sông truyền thống: không chỉ lập chiến công mà ngay cả khi bị thương vẫn là người đi tìm giặc. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.

Rồi trăm con sông gia đình lại cùng đổ về một biến, "mà biển thì rộng lắm [...], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".

- Từ phạm vi nhỏ hẹp như dòng sông gia đình, nhà văn đã hướng suy nghĩ của mình đến những điều lớn lao hớn, đó chính là biển cả, là truyền thống, văn hóa của những dân tộc khác trên thế giới.

- Chuyện gia đình cũng chính là vấn đề chung của toàn dân tộc. Sức mạnh của dân tộc được sinh ra từ chính những đau thương trong gia đình

3. Kết bài: Tổng kết vấn đề nghị luận

Câu 2
Đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dòng sông Việt Nam qua hai bài tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường).

Trả lời

Gợi ý làm bài:

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận

Dẫn dắt vấn đề nghị luận

Nêu xuất xứ và trích dẫn ý kiến.

2. Thân bài

a. Vẻ đẹp dòng sông Đà

Theo tác giả, sông Đà có hai tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình

Trong tác phẩm, sông Đà được miêu tả dưới nhìn hình tượng khác nhau. Sông Đà tuy có hung dữ là thế nhưng khi nó chảy qua vùng bình nguyên lại mang dáng vẻ hiền hòa, thân thiện với con người. Con sông Đà được miêu tả dưới nhiều góc độ  :

- Đầu tiên, tác giả đặt góc nhìn từ trên cao xuống, sông Đà hiện ra "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai",  sự tô điểm của hoa, núi, mây trời khiến cho khung cảnh hiện ra đẹp như một bức tranh đầy nét trữ tình, thi vị, nên thơ

- Tiếp theo, khi bên nhìn xuống thì thấy dòng sông lấp loáng như đứa trẻ nghịch ngợm, nhìn thấy nó như đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân => hiện lên chính là vẻ đẹp thân thuộc, gần gũi mà trong sáng 

- Dưới thuyền nhìn lên thấy bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa ... => vẻ đẹp hoài cổ, trữ tình, giàu chất thơ và thi vị,

=> Nguyễn Tuân thành công sử dụng biện pháp tu từ so sánh một cách sáng tạo trong việc miêu tả hình ảnh con sông, cùng với  ngôn ngữ êm dịu kết hợp với giọng văn du dương, hình ảnh thơ mộng , được quan sát dưới nhiều lăng kính : dòng sông ẩn hiện trong mây trời, con hươu ngẩng đầu ra khỏi ánh cỏ sương... để từ đó làm nổi bật hình ảnh dòng sông hiền hòa, thơ mộng, trong sáng. Đó chính là dòng sông quê hương mang một vẻ đẹp đầy chất trữ tình, thi vị.

Vẻ đẹp của con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả vô cùng tỉ mỉ : được xem là một tác phẩm hội họa tuyệt vời mà tạo hóa ban tặng cho đất nước. Nổi tiếng là bậc thầy ngôn ngữ, khả năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã đặc tả con sông Đà ở đoạn này bằng những ngôn từ mềm mại, dịu dàng thể hiện đúng cái dáng vẻ của con sông.

b. Vẻ đẹp của sông Hương

Tác giả miêu tả một cách vô cùng chi tiết hành trình của con sông Hương, từ thượng nguồn Trường Sơn, dòng sông Hương chảy qua núi đồi, cánh đồng, làng mạc, kinh thành rồi đổ ra biển Đông. Vẻ đẹp của sông Hương càng thêm trở nên mê hồn khi nó được nhân hóa như người con gái có dáng dấp, trang phục, gương mặt, tính cách, tâm hồn,...

- Giữa dòng Trường Sơn, nó là bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn... như cô gái di-gan phóng khoáng và man dại... con sông mang dáng vẻ hoang dại nhưng cũng phóng túng, đáng yêu.

- Khi ra khỏi rừng, sông Hương lại mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, như người mẹ phù sa, tâm hồn sâu thẳm đã đóng kín lại ở cửa rừng. Những ngọn đồi tạo nên những mảng phản quang lên gương mặt sông nhiều màu sắc trên nền tây nam thành phố: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.

- Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, dòng sông như người đẹp nhủ mơ màng... uốn mình theo những đường cong thật mềm... sắc nước xanh thẳm.

- Giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, dòng sông đi qua giữa chốn bốn bề núi phủ mây phong lại mang vẻ đẹp trầm mặc... kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga...

- Từ đó, như tìm đúng đường về, sông Hương lại vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô. Giáp mặt thành phố thì sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến quanh năm sương khói mơ màng, làm cho dòng sông mềm hẳn đi, "như một tiếng vâng không nói của tình yêu".

- Khi rời khỏi kinh thành, nó lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc... như sực nhớ điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh... như chút vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu... ấy là tấm lòng người Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

=> Giọng văn mềm mang mang chất trữ tình, ngôn từ trau chuốt một cách thi vị đã lột tả hết vẻ phong phú của dòng sông nhưng nổi bật nhất là vẻ duyên dáng, hiền hòa, trong xanh phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Mặt sông chính là tấm gương phản chiếu khung cảnh thiên nhiên của quê hương theo năm tháng. Chiều dài của dòng sông như chiều dài của một chuyến đi, cũng là hành trình lớn lên của một cuộc đời được đào thải những tính nết chưa đẹp để giữ lại nét đáng yêu của tuổi đương thì, nên dòng chảy biểu lộ một tính cách có thay đổi theo địa hình để vừa tô điểm cho vẻ đẹp kinh thành như một con người của quê hương xứ Huế.

c. Sông Đà và sông Hương

Nếu sông Đà được Nguyễn Tuân so sánh với nhiều hình ảnh đặc trưng, ấn tượng, khi thì lại là con quái vật, lúc lại giống người con gái hiền hậu, dịu dàng ; thì Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh sông Hương như "một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại"... Cả Nguyễn Tuân và Hoàng Ngọc Tưởng đã thành công trong thể loại tùy bút bằng những miêu tả tỉ mỉ và tài hoa của mình, khiến cho con sông Đà và sông Hương bỗng như hiện ra trước mặt người đọc, vẽ ra trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc về những nơi thiên nhiên tuyệt đẹp mà họ chưa từng đặt chân đến.

3. Kết bài

- Cả hai nhà văn đều sử dụng thể tùy bút để khám phá vẻ đẹp riêng của mỗi dòng sông, khiến cho người đọc như đang thật sự lạc vào khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà cũng rất nên thơ trữ tình.

- Tình yêu nước vô cùng của cả hai tác giả đã được thể hiện rõ ở hai đoạn trích trên thông qua việc quan sát tỉ mỉ từng chi tiết vẻ đẹp của hai con sông.

Câu 3
Đề 3: Về một truyện ngắn trong văn xuôi hiện đại Việt Nam mà anh (chị) yêu thích

Trả lời

Gợi ý làm bài:

- Đề bài yêu cầu chọn một truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam để bàn luận: phân tích, đánh giá, phát biểu cảm nghĩ về vấn đề đã chọn.

- Chú ý khi gặp đề này, ta không nên phân tích dài trải cả nội dung mà cần phải tập trung vào một vấn đề nghị luận chính trong tác phẩm mà ta muốn hướng đến. Khi nêu được vấn đề nghị luận cần phải giải thích ngắn gọn lí do chọn đề tài

Gợi ý tác phẩm có thể lựa chọn viết:Vợ chồng A Phủ -Tô Hoài

Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Nêu đặc điểm nổi bật của Mị và A Phủ ( xuất thân, tính cách, điểm tương đồng,).

- Tập trung vào việc lựa chọn, kết hợp và sắp xếp các chi tiết nghệ thuật để diễn tả tính cách phù hợp với những đặc điểm chung, điểm riêng của hai nhân vật: ngoại hình, tính cách, hành động, ngôn ngữ, tâm lý.

- Đánh giá khái quát những điểm nổi bật về cách xây dựng nhân vật trong tác phẩm

Hình tượng nhân vật Mị.

- Vai trò của nhân vật trong truyện ngắn.

- Nêu nhwunxg điểm nlamf nổi bật hình tuowjgn nhân vật (tâm lí, suy nghĩ, hành động)

- Đánh giá chung về giá trị nghệ thuật của hình tượng trong truyện.

0.05321 sec| 2520.953 kb