Bài tập 7. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của...

Câu hỏi:

Bài tập 7. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thấy thì mái tóc đã bạc phơ...

[...] Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vật vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

Thầy luôn đăm chiêu nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thấy cáu giận, gắt gỏng với chúng tôi. Cũng chẳng bao giờ thây bỏ một tiết lên lớp nào, kể cả những hôm thầy yếu mệt, sốt cao, giọng run run.

Các cô giáo, thầy giáo trong trường kể rằng thầy là một trong những hoạ sĩ học khoá đầu tiên của Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương. Bạn học của thầy, hầu hết đều đã trở thành những hoạ sĩ tên tuổi, có người nổi tiếng cả ở nước ngoài, riêng thầy Bản chỉ là một giáo viên dạy vẽ bình thường ở một trường cấp hai.

Thầy dạy chúng tôi kẻ chữ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực, viên gạch, thỉnh thoảng mới có một bài “vẽ tự do”: cảnh chùa hoặc cảnh lao động ở vườn trường. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ. Có những lần, thầy đưa chúng tôi về nhà thầy chơi, về gian gác hẹp xếp đầy sách vở và tranh ảnh. Thầy đưa chúng tôi xem những quyển sách của các bậc danh hoạ. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ, những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm... Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý. Chúng tôi có đi hỏi nhưng chẳng mấy ai biết tên hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản.

(Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr. 178 – 180)

1. Câu chuyện trong đoạn trích được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?

2. Tìm một số chi tiết miêu tả trang phục của thầy giáo dạy vẽ. Những chi tiết đó cho em cảm nhận gì về nhân vật?

3. Nhân vật “tôi” đã cảm nhận như thế nào về tính cách của thầy giáo dạy vẽ?

4. Tìm số từ trong các câu sau và giải thích ý nghĩa của chúng:

a. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ...

b. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ. 

5. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy.

b. Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý.

6. Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ, tính từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:

a. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ.

b. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ, những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm...

Câu trả lời:
Người trả lời: GV. Đỗ Văn Phương
1. Ngôi kể thứ nhất truyền cảm của người kể chuyện về thầy giáo dạy vẽ của mình.
2. Chi tiết miêu tả trang phục của thầy giáo dạy vẽ: Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vật vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.=> Từ miêu tả trang phục, thầy giáo dạy vẽ được biểu hiện là một người ăn mặc giản dị, mộc mạc.
3. Nhân vật kể chuyện cảm nhận thầy giáo là một người hiền hậu, kiên nhẫn và không bao giờ giận dữ.
4.
a. - "Mười bảy năm" => chỉ số lượng thời gian đã trôi qua.
- "Học lớp Năm" => chỉ số lượng của một cấp học.
b. - "Thế giới thứ hai" => chỉ một thế giới ảo, khác biệt
5.
a. Phó từ "là" bổ nghĩa cho danh từ "câu chuyện" để nhấn mạnh tính chất thú vị của câu chuyện.
b. Phó từ "không, nhưng" kết hợp bổ nghĩa cho tính từ "đẹp" để phân định giữa việc vẽ và việc được chú ý.
6.
a. Phó từ "cho" bổ nghĩa cho động từ "bảo" để chỉ việc hướng dẫn, chỉ dạy.
b. Phó từ "cũng cho" bổ nghĩa cho động từ "xem" để chỉ việc giới thiệu, trình bày.
Bình luận (5)

Nguyễn Thảo

5. a. Phó từ bổ nghĩa cho danh từ 'của thầy' là 'của thầy'. Phó từ này giúp nhấn mạnh đến nguồn gốc hoặc sở hữu của một đối tượng. b. Phó từ bổ nghĩa cho danh từ 'được mọi người chú ý' là 'mọi người'. Phó từ này nhấn mạnh đến người hoặc nhóm người đã để ý tới tranh vẽ của thầy giáo dạy vẽ.

Trả lời.

Cao Minh Trang

4. a. Số từ trong câu 'mười bảy năm' là hai. Ý nghĩa của số từ này là khoảng thời gian đã trôi qua kể từ khi thầy giáo dạy vẽ chúng tôi. b. Số từ trong câu 'thế giới thứ hai' là hai. Ý nghĩa của số từ này là một thế giới ẩn dụ, không phải thế giới thực tế mà thầy giáo dạy vẽ giúp chúng tôi khám phá thông qua tranh vẽ.

Trả lời.

HOÀNG AN TRẦN

3. Nhân vật “tôi” đã cảm nhận rằng tính cách của thầy giáo dạy vẽ là hiền hậu, đầy kiên nhẫn và tận tâm đối với học trò.

Trả lời.

Phạm My

2. Những chi tiết miêu tả trang phục của thầy giáo dạy vẽ bao gồm: bộ-lê đen cũ, chiếc ca-vật thắt chỉnh tề, mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu sờn rách. Từ những chi tiết này, chúng ta cảm nhận được thầy giáo dạy vẽ là người tận tâm, cẩn thận và có phần cổ điển trong phong cách sống.

Trả lời.

Bích Trâm

1. Câu chuyện trong đoạn trích được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ nhất.

Trả lời.
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
1.06914 sec| 2198.758 kb