Thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8
Uh oh, mình đang rối bời với một câu hỏi khó đây. Mọi người có thể giúp mình tìm câu trả lời được không?
Các câu trả lời
Câu hỏi Lịch sử Lớp 12
- Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có sự hiện diện của quân đội nước nào? A. Trung...
- Tình hình nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917 và tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 chứng tỏ A....
- Nguyên nhân khách quan làm cho khởi nghĩa Yên Bái thất bại là do A. giai cấp Tư sản dân tộc lãnh đạo B. tổ chức...
- Ở Việt Nam, Nam đồng thư xã - một nhà xuất bản tiến bộ - là cơ sở đầu tiên của A. Việt Nam Quốc dân đảng. B....
- Công cuộc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước (1975 - 1976) diễn ra như thế nào? Ý nghĩa của công cuộc...
- Câu 24. Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được ghi nhận trong Hiệp định Pari 1973 là A. quốc gia tự...
- Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” là của ai? A. Chủ tịch Hồ Chí Minh. B. Trường Chinh. C. Phạm Văn...
- Từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, quân ta liên tiếp mở các chiến dịch đánh địch ở Trung du và đồng bằng, đó là những...
Câu hỏi Lớp 12
- Cho m gam hỗn hợp E gồm NaHCO3, Fe2O3, ZnO, MgCO3 tác dụng vừa đủ với dung dịch H2SO4 24,5%, thu được dung dịch X chứa...
- Cho 8,9 gam một hợp chất hữu cơ X có công thức phân tử C3H7 O 2 N phản ứng với 100 ml dung dịch NaOH 1,5M. Sau khi phản...
- Nơi mặt trời lặn cuối cùng của nước ta là D. Điểm cực Nam C. Điểm cực Bắc B. Điểm cực Đông A. Điểm cực Tây
- Tính pH của dung dịch NH4Cl 0,25 M. Cho NH3 có pKb = 4,75.
- Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình bao gồm mấy mối quan hệ? A.2. B.3. C.4. D.5.
- câu giành co ctv a) Khảo sát và vẽ đồ thị hàm số y=x3+3x2-4 b) Viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị tại điểm...
- 3.She said: “I am going to the movies tomorrow” 4.Lan said to me: “You are looking much...
- Chất X có CTPT C 4H 8O 2. Khi X tác dụng với dung dịch NaOH sinh ra chất Y có công thức C 3H 5O 2Na. Công thức cấu tạo...
Bạn muốn hỏi điều gì?
Đặt câu hỏix
- ²
- ³
- √
- ∛
- ·
- ×
- ÷
- ±
- ≈
- ≤
- ≥
- ≡
- ⇒
- ⇔
- ∈
- ∉
- ∧
- ∨
- ∞
- Δ
- π
- Ф
- ω
- ↑
- ↓
- ∵
- ∴
- ↔
- →
- ←
- ⇵
- ⇅
- ⇄
- ⇆
- ∫
- ∑
- ⊂
- ⊃
- ⊆
- ⊇
- ⊄
- ⊅
- ∀
- ∠
- ∡
- ⊥
- ∪
- ∩
- ∅
- ¬
- ⊕
- ║
- ∦
- ∝
- ㏒
- ㏑
Đỗ Huỳnh Dung
Để trả lời câu hỏi về "Thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8", bạn có thể làm như sau:Cách làm 1: Tìm hiểu về khái niệm "thời cơ" và cách mà các nhà lãnh đạo trong cách mạng tháng 8 đã nhận biết và tận dụng thời cơ để đưa ra những quyết định quan trọng và thành công trong cách mạng.Cách làm 2: Nghiên cứu về nghệ thuật chớp thời cơ trong lịch sử, tập trung vào các ví dụ cụ thể trong cách mạng tháng 8 để thấy rõ cách mà những quyết định nhanh nhạy và kịp thời đã đóng vai trò quyết định trong thành công của cách mạng.Câu trả lời: Nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8 đề cập đến khả năng nhận biết và tận dụng cơ hội một cách nhanh nhạy và hiệu quả. Những nhà lãnh đạo trong cách mạng tháng 8 đã tỏ ra thông minh và quyết đoán trong việc chớp lấy thời cơ, giúp cho cách mạng diễn ra suôn sẻ và thành công. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc nhận biết và tận dụng cơ hội trong lịch sử lớp 12.
Phạm Đăng Hưng
{1. Thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8 là một phần quan trọng trong lịch sử Việt Nam, thể hiện sự quan trọng của việc nắm bắt cơ hội trong cuộc cách mạng.2. Trong quá trình cách mạng tháng 8, việc nắm bắt thời cơ đóng vai trò quyết định trong thành công của cuộc cách mạng.3. Nghệ thuật chớp thời cơ là khả năng phát hiện và tận dụng cơ hội một cách nhanh nhạy, đưa ra những quyết định đúng đắn và kịp thời.4. Trong lịch sử cách mạng của Việt Nam, các nhà lãnh đạo đã phải sử dụng nghệ thuật chớp thời cơ để khai thác cơ hội, thắng lợi trước khó khăn.5. Nghệ thuật chớp thời cơ không chỉ đòi hỏi một cá nhân hay một tập thể biết nhìn nhận cơ hội mà còn yêu cầu sự ganh đua, quyết tâm và kiên định trong thực hiện mục tiêu.6. Việc áp dụng nghệ thuật chớp thời cơ hiệu quả trong cuộc cách mạng thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo và khôn ngoan của các nhà lãnh đạo và nhân dân Việt Nam trong việc xây*** và bảo vệ đất nước. }
Phạm Đăng Việt
Thời cơ:
Thứ nhất, đó là bắt đầu từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản đã bị thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, đồng chí Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, đang trong lúc Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp để nhận định tình hình, phân công nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa vụ trang, thì tiếp tục nhận được thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1”. Đến 23 giờ đêm cùng ngày, bản “Quân lệnh số 1” hoàn thành và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của Nhật Bản, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào. Hội nghị đã nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng: phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn giao chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh.
Tóm lại, Cách mạng Tháng Tám và Lễ Độc lập chỉ có thể thực hiện thành công trong khoảng thời gian 22 ngày ấy. Nếu Tổng khởi nghĩa diễn ra trước ngày 12/8/1945 sẽ không được vì khi ấy phát xít Nhật vẫn còn khá mạnh, chưa chịu ngừng bắn và đầu hàng quân Đồng minh. Còn nếu Lễ Độc lập tuyên bố và khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra muộn hơn sau ngày 2/9/1945 cũng không được vì khi ấy quân Anh và quân Tưởng đã vào nước ta giải giáp, tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật.
Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm rung chuyển cả Đông Nam Á, châu Á, châu Phi và nhiều khu vực khác trên thế giới; tạo ra làn sóng cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do của các nước thuộc địa như: Inđônêxia cùng giành được độc lập trong tháng 8/1945; Ấn Độ giành độc lập năm 1947; Mianma giành độc lập năm 1948; Marôc giành độc lập năm 1956; Malaixia giành độc lập năm 1957; Ănggôla giành độc lập năm 1961; Angiêri giành độc lập năm 1962…